1. Trong những năm gần đây, TNGT là nguyên nhân gây tử vong thứ hai (sau đuối nước) ở trẻ em, tuy có giảm nhưng vẫn còn ở mức rất cao. Trong vòng 10 năm qua, khoảng gần 2.000 trẻ em tử vong mỗi năm do TNGT, chiếm 25% tổng số trẻ tử vong do các tai nạn thương tích.
Theo đánh giá của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, mỗi năm có khoảng 1.800-2.000 vụ TNGT liên quan tới trẻ em, trong đó khoảng 600-700 vụ liên quan tới ô tô có trẻ em. Hầu hết trẻ em ngồi trên ô tô đều không được bảo đảm an toàn; ít người thắt dây an toàn hoặc bố trí ghế dành cho trẻ em; nhiều người vẫn để trẻ em ngồi ghế trước, thậm chí đứng trong xe, vươn tay, thò đầu qua cửa sổ,.… Khi được hỏi về vị trí trên xe an toàn nhất cho trẻ, có 36% người cho rằng ngồi ghế sau là an toàn nhất, 28% người cho rằng ngồi ghế trước và 27,8% người trả lời ngồi trong thiết bị an toàn chuyên dụng. Có tới 75,4% ủng hộ cần thiết có quy định bắt buộc về thiết bị an toàn trên xe. Theo Báo cáo về thiết bị an toàn cho trẻ em trên ô tô của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), thiết bị an toàn cho trẻ em giảm rủi ro chấn thương nặng tới 80% so với trẻ chỉ dùng dây an toàn người lớn; ghế nâng cho lứa tuổi 6-10 tuổi giúp giảm 77% rủi ro chấn thương so với trẻ không sử dụng.
.jpg)
Bên cạnh đó, TNGT còn xảy ra khi trẻ em tự điều khiển phương tiện như xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp, xe trượt,… Tình trạng thanh thiếu niên, học sinh vi phạm quy định về TTATGT diễn ra phức tạp, với các hành vi vi phạm chủ yếu là: không đội mũ bảo hiểm, chở quá số người quy định, đi xe dàn hàng ngang, vượt đèn đỏ, chạy quá tốc độ, lạng lách, đánh võng, vượt ẩu,…gây nguy hiểm cho bản thân và người tham gia giao thông xung quanh. Thực trạng này rất đáng lo ngại, là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến cho TNGT trong học sinh tăng cao. Nhiều em học sinh điều khiển xe gắn máy, xe mô tô đến trường nhưng chưa hiểu hết các quy định của pháp luật về TTATGT, ý thức tham gia giao thông chưa cao, kỹ năng điều khiển phương tiện không có nên tiềm ẩn nguy cơ rất lớn gây TNGT.
Nguyên nhân là do công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về TTATGT cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức, chưa hiệu quả; việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội chưa chặt chẽ, trách nhiệm của từng chủ thể chưa được phát huy đầy đủ. Cùng với đó, quy định pháp luật về TTATGT đường bộ góp phần bảo vệ trẻ em chưa hoàn thiện, còn nhiều nội dung chưa theo kịp cuộc sống. Chưa có quy định về bảo đảm cho trẻ khi ngồi trên ô tô, như về thiết bị an toàn cho trẻ, trách nhiệm của người lái xe với trẻ em trên xe, bảo đảm an toàn cho trẻ đối với các hoạt động vận tải đưa đón học sinh bằng ô tô,... Chưa có quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm, các thiết bị bảo hộ khi trẻ em điều khiển xe đạp,…
2. Ngày 27/6/2024, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật TTATGT đường bộ, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025. Luật được xây dựng, ban hành đã tạo cơ sở pháp lý về bảo đảm TTATGT đường bộ, bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe cho người tham gia giao thông, trong đó có đối tượng trẻ em, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Một số điểm mới liên quan tới quy định bảo đảm an toàn cho trẻ em khi tham gia giao thông trong Luật TTATGT đường bộ, đó là:
Một là, chú trọng giáo dục kiến thức pháp luật về TTATGT cho học sinh, sinh viên (Điều 6), trong đó giao lực lượng Cảnh sát giao thông có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan quản lý trường trung học phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức hướng dẫn kỹ năng lái xe gắn máy an toàn cho học sinh tại cơ sở giáo dục đó. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm tích hợp nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật về TTATGT vào trong các môn học thuộc chương trình chính khóa phù hợp với từng cấp học và trình độ đào tạo, mục tiêu giáo dục, ngành đào tạo; xây dựng các tài liệu tuyên truyền, giáo dục pháp luật về TTATGT đường bộ, kỹ năng tham gia giao thông an toàn và văn hóa ứng xử khi tham gia giao thông cho học sinh. Từ đó, nâng cao nhận thức cho trẻ em về nguy hại do TNGT gây ra; đồng thời nâng cao ý thức, kỹ năng của trẻ khi tham gia giao thông. Đây là biện pháp quan trọng, phòng ngừa tai nạn cho trẻ từ sớm, từ xa.
Hai là, quy định biện pháp bảo đảm an toàn cho trẻ khi tham gia giao thông trên ô tô. Khoản 3 Điều 10 quy định: “Khi chở trẻ em dưới 10 tuổi và chiều cao dưới 1,35 mét trên xe ô tô không được cho trẻ em ngồi cùng hàng ghế với người lái xe, trừ loại xe ô tô chỉ có một hàng ghế; người lái xe phải sử dụng, hướng dẫn sử dụng thiết bị an toàn phù hợp cho trẻ em”. Quy định này có hiệu lực từ ngày 01/01/2026.
Nội dung này đã tiệm cận được với quy định của các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Hiện có 115 nước đã có luật cấm trẻ em ngồi ghế trước, trong đó có 70 nước cấm hoàn toàn và 45 nước cấm nhưng cho phép trẻ ngồi ghế trước nếu có thiết bị an toàn cho trẻ em trên xe ô tô. Có gần 100 quốc gia đã thể chế hóa quy định bắt buộc sử dụng thiết bị an toàn trẻ em trên ô tô cá nhân. Trong khu vực ASEAN, các quốc gia như Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Căm-pu-chia,… cũng đều quy định bắt buộc sử dụng thiết bị an toàn với trẻ trên xe ô tô cá nhân.
Để đưa quy định này vào thực tiễn, thời gian tới còn có nhiều yếu tố cần chuẩn bị. Các nhà lập pháp cần có thời gian chuẩn bị về phương án và các quy định đi kèm để việc thực thi luật tốt hơn. Đồng thời, cần thời gian để đưa ra các quy chuẩn chất lượng cho thiết bị; người dân cần chuẩn bị tiếp nhận, chuẩn bị và đáp ứng luật mới. Người dân cần hiểu về tầm quan trọng của việc sử dụng thiết bị đạt chuẩn và cách sử dụng đúng, cài đúng trên ô tô là rất quan trọng. Cần chủ động thực hiện quy định này để bảo vệ trẻ em trên mỗi hành trình.
Ba là, đề cao trách nhiệm của người lớn đối với việc bảo đảm an toàn cho trẻ khi tham gia giao thông. Do nhận thức và kỹ năng xử lý các tình huống giao thông hạn chế, trẻ em, nhất là trẻ dưới 7 tuổi khi tham gia giao thông phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ của người lớn để tránh các tình huống mất an toàn. Điều 30 quy định: “trẻ em dưới 7 tuổi khi đi qua đường phải có người lớn dẫn dắt” (Điểm a Khoản 2); “mọi người có trách nhiệm giúp đỡ người khuyết tật, già yếu, mắc bệnh tâm thần, trẻ em dưới 7 tuổi, phụ nữ mang thai khi đi qua đường” (Điểm đ Khoản 2).
Bốn là, bảo đảm TTATGT đường bộ đối với xe ô tô chở trẻ em mầm non, học sinh (Điều 46). Hoạt động vận tải để đưa đón học sinh đến trường học và về nhà là rất quan trọng. Khi hoạt động này thực hiện tốt, là cơ sở gây dựng niềm tin đối với các bậc phụ huynh, đồng thời bảo vệ trẻ em trước các tình huống giao thông phức tạp nảy sinh.
Đối với xe ô tô kinh doanh vận tải chở trẻ em mầm non, học sinh phải bảo đảm các điều kiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 35 của Luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ; có thiết bị ghi nhận hình ảnh trẻ em mầm non, học sinh và thiết bị có chức năng cảnh báo, chống bỏ quên trẻ em trên xe; có niên hạn sử dụng không quá 20 năm; có màu sơn theo quy định của Chính phủ. Xe ô tô chở trẻ em mầm non hoặc học sinh tiểu học phải có dây đai an toàn phù hợp với lứa tuổi hoặc sử dụng xe có ghế ngồi phù hợp với lứa tuổi theo quy định của pháp luật.
Đối với xe ô tô kinh doanh vận tải kết hợp với hoạt động đưa đón trẻ em mầm non, học sinh phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định tại khoản 3 Điều 10, khoản 1 và khoản 2 Điều 35 của Luật TTATGT đường bộ; có thiết bị ghi nhận hình ảnh trẻ em mầm non, học sinh và thiết bị có chức năng cảnh báo, chống bỏ quên trẻ em trên xe đáp ứng yêu cầu theo quy định.
Khi đưa đón trẻ em mầm non, học sinh tiểu học phải bố trí tối thiểu 01 người quản lý trên mỗi xe ô tô để hướng dẫn, giám sát, duy trì trật tự và bảo đảm an toàn cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học trong suốt chuyến đi. Trường hợp xe từ 29 chỗ trở lên (không kể chỗ của người lái xe) mà chở từ 27 trẻ em mầm non và học sinh tiểu học trở lên phải bố trí tối thiểu 02 người quản lý trên mỗi xe ô tô. Người quản lý, người lái xe có trách nhiệm kiểm tra trẻ em mầm non, học sinh tiểu học khi xuống xe; không được để trẻ em mầm non, học sinh tiểu học trên xe khi người quản lý và người lái xe đã rời xe.
Người lái xe ô tô đưa đón trẻ em mầm non, học sinh phải có tối thiểu 02 năm kinh nghiệm lái xe vận tải hành khách.
Xe đưa đón trẻ em mầm non, học sinh được ưu tiên trong tổ chức phân luồng, điều tiết giao thông, bố trí nơi dừng xe, đỗ xe tại khu vực trường học và tại các điểm trên lộ trình đưa đón trẻ em mầm non, học sinh.
Cơ sở giáo dục phải xây dựng quy trình bảo đảm an toàn khi đưa đón trẻ em mầm non, học sinh; hướng dẫn cho lái xe và người quản lý trẻ em mầm non, học sinh nắm vững và thực hiện đúng quy trình; chịu trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ khi tổ chức đưa đón trẻ em mầm non, học sinh của cơ sở giáo dục đó.
Năm là, trong chính sách của Nhà nước về TTATGT đường bộ có quy định: “Bảo đảm công bằng, bình đẳng, an toàn đối với người tham gia giao thông đường bộ; tạo thuận lợi cho trẻ em, phụ nữ mang thai, người già yếu, người khuyết tật trong tham gia giao thông đường bộ; xây dựng văn hóa giao thông; giáo dục, phổ biến, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ cho trẻ em, học sinh để hình thành, nâng cao ý thức tự bảo vệ bản thân và tự giác chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông đường bộ” (Khoản 4 Điều 4). Điểm c khoản 1 Điều 33 quy định: người lái xe mô tô hai bánh, xe gắn máy chỉ được chở một người; trường hợp người được chở là trẻ em dưới 12 tuổi (thay vì 14 tuổi theo quy định của Luật Giao thông đường bộ trước đây) thì được chở tối đa hai người. Việc điều chỉnh độ tuổi này để đảm bảo phù hợp với thể lực, chiều cao của trẻ em ngày nay phát triển hơn so với trước đây.
Nguyễn Thành Công