Đèn đỏ giao thông

Tra cứu phương tiện vi phạm giao thông qua hình ảnh

Biển kiểm soát

Loại phương tiện

Mã bảo mật

Tra cứu xe mất đăng ký, biển số, hết niên hạn, mất cắp

Biển kiểm soát

Loại phương tiện

Mã bảo mật

Quảng cáo phải Quảng cáo phải Danh ba dien thoai Chung tay vì an toàn giao thông
Trang chủ / Nghiên cứu - Trao đổi
Một số giải pháp ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, Đảng viên hiện nay
Ngày đăng: 20/08/2024
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm chăm lo giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, “đa số cán bộ, đảng viên có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, giữ gìn phẩm chất đạo đức, vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ”, động viên, khích lệ nhân dân vượt qua khó khăn, thách thức, đưa công cuộc đổi mới ở nước ta đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang diễn ra sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu nhân dân, trái với chuẩn mực đạo đức của người cộng sản “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, làm cho nhân dân bất bình, lo lắng. 
 Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đánh giá: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”. Tình trạng này “làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. 
 Do vậy, Trung ương yêu cầu phải “kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng”. 
 Văn kiện Đại hội XII của Đảng một lần nữa chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”. 
 Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đánh giá: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá””. Có thể thấy, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sông là nguy cơ liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ. 
Vấn đề đặt ra là, vì sao tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống vẫn tiếp tục diễn biến nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi? Phải chăng chúng ta chưa đánh giá chính xác mức độ, tính chất của tình hình, chưa chỉ rõ nguyên nhân, chưa đề ra được hệ thống giải pháp đồng bộ và đủ mạnh hay thiếu các điều kiện để thực hiện các giải pháp? Thực trạng và nguyên nhân của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay có những biểu hiện sau: 
Một là, tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị, nâng cao trình độ lý luận và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên 
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đã nêu trên có một phần trách nhiệm không nhỏ của tổ chức đảng các cấp. Biểu hiện rõ ở việc nắm tình hình chưa chắc, chưa kịp thời, tính chiến đấu chưa cao của tổ chức đảng, cấp ủy các cấp; thậm chí nhận thức, thái độ chính trị của một số cấp ủy đảng về vấn đề này còn chưa thực sự đầy đủ và chưa quan tâm đúng mức. “Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"”3 
Đây là giải pháp cơ bản, giữ vai trò nền tảng trong nâng cao hiệu quả đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cấp ủy các cấp lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới toàn diện, mạnh mẽ về nội dung, phương thức công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước làm cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của đường lối đổi mới. Khơi dậy ý chí tự cường, tự tôn dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Phát huy tinh thần đoàn kết, sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong Đảng và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, sự đồng thuận về chính trị, tinh thần trong xã hội để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nâng cao tính thuyết phục, tính chiến đấu của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bám sát thực tiễn, trang bị hệ thống kiến thức cơ bản, hệ thống, phù hợp với từng đối tượng. Làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận do thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra. Coi trọng phương pháp nêu gương, cấp trên nêu gương trước cấp dưới, noi gương học tập các điển hình tiên tiến, thực hiện tốt chế độ thông tin tình hình, định hướng tư tưởng. 
Cấp ủy các cấp Lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới toàn diện, mạnh mẽ về nội dung, phương thức công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước làm cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của đường lối đổi mới. Khơi dậy ý chí tự cường, tự tôn dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Phát huy tinh thần đoàn kết, sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong Đảng và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, sự đồng thuận về chính trị, tinh thần trong xã hội để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nâng cao tính thuyết phục, tính chiến đấu của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bám sát thực tiễn, trang bị hệ thống kiến thức cơ bản, hệ thống, phù hợp với từng đối tượng. Làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận do thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra. Coi trọng phương pháp nêu gương, cấp trên nêu gương trước cấp dưới, noi gương học tập các điển hình tiên tiến, thực hiện tốt chế độ thông tin tình hình, định hướng tư tưởng. 
Do vậy, tổ chức đảng các cấp cần phải nhận thức rõ tác hại và tính chất quyết liệt, phức tạp của việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay. Từ đó xác định trách nhiệm chính trị, xây dựng quyết tâm cao, đề ra những biện pháp quyết liệt, thiết thực, cụ thể trong các hoạt động học tập, công tác, sinh hoạt ở mỗi cơ quan, đơn vị. Thông qua các hoạt động, kiểm điểm của cấp ủy đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải chỉ ra được các biểu hiện suy thoái đang tiềm ẩn hoặc đã xuất hiện ở cơ quan, đơn vị mình: từ sự phai nhạt về lý tưởng cách mạng đến những nhận thức lệch lạc, sai trái, thái độ thiếu tích cực, hành vi tiêu cực, cơ hội, tham nhũng, lãng phí và tác phong làm việc, sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử,… để có các biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi kịp thời, hiệu quả. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức và hành động của mỗi tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng, bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng. Phải luôn trung thành và đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. 
Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tổ chức quán triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo hướng thiết thực, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng. 
 
Lớp tập huấn bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho lãnh đạo, chỉ huy, CBCS thuộc lực lượng CSGT  

Hai là, xác định rõ vai trò, phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở; nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên. Đảng viên dù giữ cương vị, trọng trách nào cũng tham gia sinh hoạt và chịu sự quản lý, giáo dục, rèn luyện của chi bộ. Cấp ủy cơ sở là hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết, đại biểu cho trí tuệ, ý chí của tổ chức cơ sở đảng; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng phụ thuộc trước hết và chủ yếu vào số lượng, cơ cấu của cấp ủy, phẩm chất, năng lực của các cấp ủy viên. Vì vậy, để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, trước hết phải chăm lo củng cố, kiện toàn cấp uỷ cơ sở có đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, chất lượng cao, bảo đảm tính kế thừa, phát triển, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện và chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình tổ chức cơ sở đảng. 

Người đứng đầu cơ quan, đơn vị có thẩm quyền và trách nhiệm cao nhất trong mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị, nên có vai trò quan trọng đối với việc phòng, chống, ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, việc quy định trách nhiệm của người đứng đầu đối với vấn đề này chưa thật rõ, nhất là trách nhiệm khi để xảy ra các vụ việc tiêu cực trong cơ quan, đơn vị thuộc quyền, cũng như trách nhiệm trong xử lý thiếu kiên quyết, kém hiệu quả. Thực tiễn ở một số cơ quan, đơn vị hiện nay cho thấy, một số cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền để tham nhũng, làm ăn phi pháp, làm giàu bất chính nhanh, nhưng không được các cấp ủy đảng, người đứng đầu kiểm tra, làm rõ và xử lý kịp thời. Vì vậy, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của mọi lực lượng tham gia vào cuộc đấu tranh này, trước hết là người đứng đầu cấp ủy đảng, cơ quan, đơn vị. Theo đó, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải có quyết tâm chính trị cao, xác định đúng vai trò, vị trí, trách nhiệm, gương mẫu trong việc chấp hành đường lối, chỉ thị, hướng dẫn, quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước; có tác phong làm việc khoa học, hiệu quả, sâu sát; có thái độ đúng mực trong giao tiếp, ứng xử, luôn lắng nghe, tiếp thu những ý kiến xác đáng của cấp dưới và nhân dân để điều chỉnh, hoàn thiện bản thân. Đồng thời, phải gắn vai trò, trách nhiệm của cán bộ chủ trì, người đứng đầu đối với các hoạt động của cơ quan, đơn vị, nhất là những hậu quả do sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống gây ra. Có như vậy, việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mới đạt được hiệu quả và có tác dụng động viên, khích lệ, khuyến khích cán bộ, đảng viên khác học tập, làm theo. 
Công tác chuẩn bị nhân sự và bầu cử cấp ủy cơ sở phải thực hiện đúng nguyên tắc, quy chế, quy định của Đảng về công tác cán bộ, phải căn cứ vào quy hoạch cán bộ đã được cấp ủy cấp trên phê chuẩn, đồng thời chú trọng phát hiện, giới thiệu bổ sung những cán bộ trẻ có đức, có tài, có năng lực lãnh đạo, quản lý để bầu tham gia cấp ủy mới. Việc đề cử, ứng cử, giới thiệu nhân sự cấp ủy cơ sở phải thực hiện đúng nguyên tắc, quy trình, quy chế bầu cử trong Đảng, bảo đảm công tâm, khách quan, phát huy dân chủ, trí tuệ của tập thể cấp ủy và cán bộ, đảng viên, lựa chọn những cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có tinh thần yêu nước sâu sắc, nhiệt tình, tận tụy phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối, quan điểm của Đảng; có đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, gương mẫu chấp hành nghiêm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước; lối sống trong sạch, lành mạnh, trung thực, không cơ hội; gắn bó mật thiết với quần chúng, được quần chúng ưu mến, tín nhiệm; có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, có trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực lãnh đạo, quản lý giỏi; có tư duy đổi mới, sáng tạo, phong cách công tác khoa học, dân chủ, sâu sát, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Kết hợp chặt chẽ kiện toàn cấp uỷ các cấp với lựa chọn, bố trí cán bộ chủ trì; chú trọng lựa chọn, bố trí nhân sự cán bộ lãnh đạo chủ chốt của cấp ủy phải tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, trí tuệ, đạo đức, uy tín, năng lực lãnh đạo, quản lý, được cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu mến, tín nhiệm. 
Là hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết của tổ chức cơ sở đảng, phẩm chất, năng lực và vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ chủ trì là một thành tố cấu thành năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng. Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, cần chú trọng bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của đội ngũ cán bộ chủ trì ở cơ sở. Tập trung bồi dưỡng cho người đứng đầu đơn vị, địa phương và bí thư cấp ủy cơ sở, bí thư chi bộ nắm vững những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên - đây là cơ sở lý luận và phương pháp luận để tổ chức cơ sở đảng đề ra chủ trương, nghị quyết lãnh đạo đúng đắn, khả thi. 
 Tập trung bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hoá, vận dụng đúng đắn, sáng tạo các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; thường xuyên cập nhật những vấn đề lý luận và thực tiễn của đất nước, của địa phương, âm mưu thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch để nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Chăm lo xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ tổ chức cơ sở đảng làm hạt nhân để củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong từng cơ quan, đơn vị. Kết hợp chặt chẽ giữa bồi dưỡng nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực thực tiễn với bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật cho cán bộ chủ trì và cấp ủy viên. Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu trong công tác và ý thức tự giác tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của cán bộ chủ trì các cấp.  
Thiếu tướng Nguyễn Văn Trung Cục trưởng trao giải nhất tại  hội thi “Bí thư chi bộ giỏi” năm 2023 

Ba là, duy trì thực hiện nghiêm các nguyên tắc, chế độ, quy định và tích cực đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. 

Tiếp tục quán triệt thực hiện tốt chỉ thị số 10-CT/TW ngày 30-3-2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; Chỉ thị số 05CT/TW của bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cần phải chú trọng những vấn đề cơ bản và cấp thiết hiện nay đó là: 

 Chi bộ là một thực thể, một tổ chức gồm những đảng viên đã được rèn luyện, thử thách, được giáo dục và đào tạo, phấn đấu cho lý tưởng và mục tiêu cao cả của cách mạng, để cho chi bộ thật sự vững mạnh, trong sạch cần chú trọng xây dựng tổ chức và giáo dục, rèn luyện đảng viên theo những nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn mực nghiêm ngặt của Đảng Bác Hồ đã từng chỉ ra rằng “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”. 
 Sinh hoạt chi bộ có vai trò và tác dụng rất quan trọng, đảm bảo cho chi bộ và mỗi đảng viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Vì vậy, củng cố và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ là vấn đề thường xuyên, là việc làm không thể thiếu. Chi bộ trong sạch, vững mạnh là chi bộ duy trì đều đặng sinh hoạt đúng định kỳ, có nội dung sinh hoạt phong phú, thiết thực, có hình thức sinh hoạt đa dạng. Sinh hoạt chi bộ có chất lượng tốt, mỗi đảng viên cần nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của sinh hoạt chi bộ thì tính Đảng được phát huy, sức chiến đấu của Đảng được tăng cường, sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện rõ nét 
- Phải đề cao lý tưởng, mục tiêu cách mạng, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển lý luận cách mạng Việt Nam, nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng 
- Không ngừng bổ sung, phát triển, đảm bảo tính khoa học, hiện thực của Cương lĩnh, đường lối, nâng cao bản lĩnh chính trị, chú trọng bảo vệ chính trị nội bộ 
- Chú trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng đối với mọi cán bộ đảng viên 
- Giữ gìn, củng cố đoàn kết, thống nhất vững chắc trong chi bộ, chống những biểu hiện cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm 
Trên tinh thần đó, để nâng cao chất lượng sinh hoạt, trước hết chi bộ cần nắm vững những vấn đề sau 
 Về tư tưởng: Thường xuyên cung cấp thông tin mới, nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình. Chi bộ cần nắm được diễn biến tư tưởng của đảng viên, để giúp đở đảng viên  hoàn thành tốt nhiệm vụ 
 Về chính trị: Chi bộ phải trở thành trường học giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Về chức năng nhiệm vụ của người đảng viên, về ý thức chính trị của đảng viên, gắn liền với thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi bộ. 
 Về tổ chức: Chi bộ thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao và thực hiện những quy định tại Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng và của Trung ương 
 Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức là nhiệm vụ to lớn mà Đảng ta đã xác định cho tất cả các tổ chức của Đảng và đảng viên. Vì thế cần phải nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của sinh hoạt chi bộ, để mọi đảng viên hiểu rõ, tự giác thực hiện tốt trách nhiệm của người đảng viên đối với hoạt động của chi bộ. 
 Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cần tổ chức theo quy trình khoa học cơ bản sau: 
- Chuẩn bị họp: Chuẩn bị chu đáo nội dung, chương trình, thời gian, tài liệu cho cuộc họp; 
- Tiến hành sinh hoạt chi bộ: Sinh hoạt chi bộ phải đảm bảo phát huy được trí tuệ của tập thể, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng; nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, thể hiện tốt tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu; 
- Chủ tọa hội nghị cần nắm vững kiến thức xây dựng Đảng, nắm vững diễn biến hội nghị chi bộ, kết luận đúng nội dung hội nghị đã thảo luận; giải đáp kịp thời và sáng tỏ những nội dung, yêu cầu của đảng viên; 
- Thư ký hội nghị phải ghi chép đầy đủ, chính xác diễn biến hội nghị và kết luận của chủ tọa, những vấn đề thuộc về kết luận, chủ trương hay nghị quyết chi bộ cần ghi rõ ràng, ngắn gọn để đảng viên dễ nhớ, dễ thực hiện; 
- Tổ chức thực hiện nghị quyết chi bộ: Đây là bước quyết định trong hành động của chi bộ thể hiện cụ thể vai trò và hiệu quả lãnh đạo của chi bộ, là cơ sở thực tiễn để rút kinh nghiệm cho kỳ hợp tiếp theo; 
- Chi ủy, bí thư chi bộ có vai trò rất quan trọng đối với sinh hoạt chi bộ và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Sinh hoạt chi ủy, chi bộ phải có quá trình chuẩn bị, đầu tư đúng mức: Kiểm điểm, đánh giá tình hình; Chủ trương, định hướng tới; Phân công, kiểm tra, đôn đốc, giám sát thực hiện.Trách nhiệm, năng lực của chi ủy, bí thư chi bộ là một trong những nhân tố quyết định đối với chất lượng sinh hoạt chi bộ; 
 Việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ là yếu tố quan trọng quyết định vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, giúp cho mỗi đảng viên nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng và thực hiện chức năng lãnh đạo, giáo dục của chi bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”. Để đạt được điều đó, phải đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. 
 Bốn là, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng của các cấp ủy đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân ở tổ chức cơ sở đảng 
 Các quy định, quy chế, hướng dẫn về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được sửa đổi, bổ sung, ban hành bảo đảm đồng bộ, thống nhất và chặt chẽ hơn, xác định rõ hơn nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát, làm cơ sở để xem xét, đánh giá, kết luận, xác định trách nhiệm của tập thể, cá nhân vi phạm và nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát [2]. Qua đó, góp phần từng bước kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, “tư duy nhiệm kỳ”, tha hóa quyền lực trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. 
 Thực hiện các quy định của Đảng, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng đã có bước tiến mới, với những kết quả rất quan trọng, mang tính đột phá. Việc xử lý kỷ luật đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm được thực hiện nghiêm minh, công khai, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ. UBKT Trung ương tích cực đổi mới hoạt động kiểm tra, giám sát, chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện dấu hiệu vi phạm. Tăng cường công tác giám sát với cách làm mới (trong đó có hoạt động xác minh...); theo dõi địa bàn, khai thác tài liệu các cơ quan liên quan. Lựa chọn những vấn đề trọng tâm, trọng điểm để kiểm tra, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và những vấn đề gây bức xúc trong xã hội. Chỉ tiến hành kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ, đó là kiểm tra việc chấp hành quy chế làm việc, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng. Tập trung kiểm tra, phát hiện vấn đề trọng tâm, nhanh chóng kết luận, xử lý, tạo niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Kiên quyết, khách quan, chính xác, không suy diễn; đề cao đối thoại với đối tượng bị kiểm tra. Xem xét kỷ luật phải công tâm, khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, chính xác, thấu tình, đạt lý. Tăng cường kiểm tra các tổ chức đảng, đảng viên ở cấp huyện và cơ sở khi có dấu hiệu vi phạm (cách cấp); kịp thời tiến hành kiểm tra lại các vụ việc dư luận quan tâm, UBKT cấp dưới đã kiểm tra nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Thường trực UBKT Trung ương chủ động và có quyết tâm chính trị cao trong chỉ đạo kiểm tra, giám sát, gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ; thường xuyên nghe các đoàn kiểm tra, giám sát báo cáo và kịp thời định hướng, chỉ đạo, tạo sự thống nhất trong quá trình kiểm tra, giám sát. Thực hiện việc công khai kết quả các phiên họp của UBKT Trung ương. Chú trọng tuyên truyền trên báo chí về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. 
 UBKT Trung ương đã tập trung kiểm tra làm rõ, kết luận nhiều vi phạm nghiêm trọng, quyết định kỷ luật, đề nghị kỷ luật nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, trong đó có cả những cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, lãnh đạo chủ chốt các địa phương, đơn vị, cả đương chức và nghỉ hưu, khắc phục tư tưởng “hạ cánh an toàn” trong cán bộ, đảng viên. Nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài, dư luận quan tâm đã được xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh, có tác dụng cảnh báo, răn đe đối với cán bộ, đảng viên, góp phần tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng. 
 Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến tháng 6-2023, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 114.878 tổ chức đảng và 619.030 đảng viên, trong đó có 136.864 cấp ủy viên các cấp; giám sát 85.117 tổ chức đảng và 282.471 đảng viên, trong đó có 82.495 cấp ủy viên. Qua giám sát, phát hiện 407 tổ chức đảng và 1.264 đảng viên có dấu hiệu vi phạm; chuyển kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 47 tổ chức đảng và 201 đảng viên. UBKT các cấp tăng cường kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, đã kiểm tra 6.873 tổ chức đảng và 20.824 đảng viên, trong đó có 10.162 cấp ủy viên các cấp, chiếm 48,8% số đảng viên được kiểm tra; giám sát 59.854 tổ chức đảng và 86.678 đảng viên, trong đó có 52.350 cấp ủy viên các cấp, chiếm 60,4% số đảng viên được giám sát [3]. 
 Qua kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, có thể thấy, nội dung vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên chủ yếu là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, dẫn đến xảy ra các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai, khoáng sản, tài chính, tài sản, thực hiện dự án đầu tư; và vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống… Đáng chú ý là vi phạm còn xảy ra ở cả các lĩnh vực nhạy cảm, như thực hiện chính sách nhân đạo, an sinh xã hội, y tế, giáo dục… Có trường hợp từng là cán bộ lãnh đạo bộ, ngành đã bị kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng do có những bài viết, phát ngôn trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước, suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tính chất, mức độ, hậu quả của các vi phạm ngày càng lớn, có những vụ việc gây thiệt hại rất lớn về tiền, tài sản của Nhà nước; nhiều vi phạm diễn ra trong một thời gian dài, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành nhưng không được phát hiện, kiểm tra kịp thời, dẫn đến khi xử lý để lại hậu quả rất nặng nề. 
 UBKT Trung ương đã tham mưu với Ban Bí thư ban hành 24 quy chế phối hợp giữa UBKT Trung ương và các cơ quan, tổ chức đảng có liên quan, tham mưu về phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả hơn, hạn chế sự chồng chéo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý để đề xuất bổ sung, sửa đổi các văn bản có liên quan cho phù hợp. Việc công khai kết luận kiểm tra và xử lý vi phạm đối với tổ chức đảng, đảng viên trên các phương tiện thông tin đại chúng đã có tác động tích cực, góp phần giáo dục cán bộ, đảng viên, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Cùng với kỷ luật của Đảng, các cơ quan nhà nước cũng tiến hành kỷ luật hành chính tương xứng, bảo đảm kịp thời, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng và kỷ luật của Nhà nước; kỷ luật của Đảng đi trước, tạo tiền đề, mở đường cho kỷ luật của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể và xử lý hình sự. Đây là bước đột phá trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong bộ máy nhà nước. 
 Đặc biệt, việc kiểm tra, giám sát, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tăng cường, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã đưa công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thành nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm tra, giám sát. Theo thống kê bước đầu, trong hơn 10 năm qua, cấp ủy, UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 3.700 tổ chức đảng, hơn 213.000 đảng viên, trong đó có hơn 8.760 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng hoặc liên quan đến tham nhũng, hơn 700 đảng viên bị kỷ luật do vi phạm về kê khai tài sản, thu nhập. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, UBKT Trung ương đã kỷ luật gần 220 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 95 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, cao hơn 8 lần so với nhiệm kỳ Đại hội XI (11 cán bộ) và gần bằng số cán bộ cao cấp bị xử lý kỷ luật của cả nhiệm kỳ Đại hội XII (113 cán bộ). 
 Phải xử lý kỷ luật cán bộ là điều không ai mong muốn, là điều không khỏi đau xót, nhưng là việc không thể không làm. Thực tế xử lý kỷ luật cán bộ cao cấp vi phạm vừa qua cho thấy, nhìn một cách tổng thể công tác cán bộ của Đảng được quy định rất chặt chẽ và khoa học, nhất là việc đề bạt, cất nhắc, luân chuyển cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý phải qua nhiều bước, nhiều cơ quan, ban, ngành ở Trung ương xem xét, thẩm định. Do đó, không thể có lỗ hổng về quy trình, quy định. Phải chăng lỗ hổng ở đây là do tổ chức, cá nhân thực hiện các quy trình, quy định đó tạo ra, là sự thiếu trách nhiệm, nể nang, né tránh, là lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm của những người có thẩm quyền, trách nhiệm đánh giá, nhận xét, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ? Vì thế, cần tăng cường kiểm tra, giám sát nội bộ Đảng, ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, phát hiện và khắc phục ngay những thiếu sót, khuyết điểm khi mới manh nha; bảo đảm cho Đảng ta, trước hết là các cơ quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo của Đảng luôn kiên định về chính trị, vững vàng về đường lối, không chệch hướng, có phẩm chất cách mạng tốt, ngăn chặn, đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Quan điểm chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư và UBKT Trung ương trong việc xử lý cán bộ sai phạm là rất dứt khoát, bởi nếu không kịp thời ngăn chặn được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng và chế độ. 
 Cách thức tiến hành của UBKT Trung ương trong xem xét các vụ việc và xử lý trách nhiệm những tập thể, cá nhân có khuyết điểm liên quan trong thời gian vừa qua được dư luận và cán bộ, đảng viên đánh giá cao. Việc công khai thông tin thể hiện sự cương quyết, trách nhiệm và thẳng thắn trong xử lý cán bộ sai phạm, cho dù đó là cán bộ ở cấp nào, đương chức hay nghỉ hưu. Cách thức công khai như vậy cũng cần được áp dụng ở cả cấp địa phương khi xem xét xử lý cán bộ sai phạm để tạo niềm tin trong nhân dân. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng thời gian qua còn không ít khuyết điểm, hạn chế. “Việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời... Công tác giám sát ở các cấp chưa thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp... Việc thi hành kỷ luật đảng ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, ngại va chạm”(4). Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, “lợi ích nhóm”, “trông chờ, nghe ngóng”, “nhẹ trên, nặng dưới” hoặc bao che sai phạm của các địa phương, cơ quan, đơn vị. Công tác tự kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị để phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh xử lý tiêu cực, sai phạm liên quan đến tham nhũng, kinh tế còn hạn chế. 
 Đặc biệt, việc kiểm soát quyền lực của cấp ủy và UBKT các cấp nhằm phòng ngừa sự lợi dụng quyền hạn trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát vẫn chưa thực sự được quan tâm, chú trọng. Trên thực tế, có nhiều biểu hiện lợi dụng quyền hạn trong thực thi nhiệm vụ kiểm tra, giám sát chưa được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, như nhận hối lộ, nhận quà biếu; tự ý tiếp xúc với đối tượng kiểm tra, giám sát; sử dụng các tài liệu thẩm tra, xác minh, kết quả kiểm tra, giám sát để trục lợi; bao che, “bỏ qua” hành vi vi phạm của đối tượng vi phạm; làm sai lệch kết quả kiểm tra, giám sát gây bất lợi hoặc có lợi cho đối tượng kiểm tra, giám sát... Các biểu hiện tha hoá quyền lực xuất hiện với nhiều hình thức, mức độ khác nhau rất đa dạng, tinh vi song mục đích chính vẫn là trục lợi – tức là tham nhũng (cả về vật chất và phi vật chất); dùng quyền lực tác động không đúng, “ưu ái” với một số đối tượng thân quen hoặc lợi dụng vị trí công tác để thao túng, thâu tóm quyền lực của tập thể, của người khác trái quy định nhằm trục lợi, “chỉ một cá nhân có thể thâu tóm, thao túng cả tập thể”, hoặc “năng lực, bộ máy, quyết tâm không thiếu nhưng vẫn không phát hiện và xử lý được tham nhũng”? Như vậy, phải chăng có vấn đề “lợi ích nhóm” và có sự dung túng, bao che, tiếp tay của cán bộ, đảng viên có chức vụ, quyền hạn? Lợi ích càng lớn thì sự tha hoá quyền lực càng nhanh, mạnh và quyết liệt, dữ dội hơn. Thực tế cho thấy, một khi luật pháp lỏng lẻo hay quyền lực ít được giám sát, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, đầy đủ thường xuyên thì sự tha hoá quyền lực càng biểu hiện công khai, trắng trợn hơn! 
  Một số giải pháp chủ yếu 
 Thời gian tới, để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong Đảng, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và UBKT các cấp trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng là hết sức nặng nề. Theo đó, cần xây dựng và hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; hoàn chỉnh quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; tăng cường đầu tư, hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm việc phục vụ công tác kiểm tra, giám sát; nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Cùng với đó, cần kiểm soát được quyết định, hành vi của chính những người làm công tác kiểm tra, giám sát. Quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau: 
 Tham mưu về tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư cấp uỷ, người đứng đầu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Từng cán bộ kiểm tra phải nắm vững và thực hiện nghiêm túc những quy định, những văn bản về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, đặc biệt là những nội dung mới, nội dung cốt lõi về công tác này được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, nhằm tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn ngành kiểm tra đảng. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải chủ động, đi trước, là tiền đề, “mở đường” cho xử lý kỷ luật hành chính Nhà nước và xử lý theo pháp luật, góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham những. Kỷ luật đảng rõ ràng, chặt chẽ, nghiêm minh là điều kiện quan trọng để Đảng thật sự là một khối đoàn kết, thống nhất trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh, thực hiện thắng lợi. Do đó, Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới. Nếu kỷ luật của Đảng lỏng lẻo thì những kẻ cơ hội, những phần tử phản động sẽ dễ dàng chui vào hàng ngũ để phá hoại Đảng. Kỷ luật của Đảng nghĩa là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải thống nhất, xuất phát từ sự tự giác của đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ của họ đối với Đảng. Tuy nhiên, kỷ luật của Đảng không chỉ đòi hỏi tính tự giác mà còn mang tính bắt buộc đối với những tổ chức đảng và đảng viên chưa ý thức đầy đủ về trách nhiệm, nhiệm vụ của mình. Những đảng viên giữ vị trí càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc, không được châm chước, bao che cho nhau. Trong bất kỳ trường hợp nào, mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật. Phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ vi phạm để có hình thức kỷ luật thích đáng. 
 Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa các mục tiêu, quan điểm, giải pháp về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thành các văn bản, quy định, quy chế, hướng dẫn, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, chặt chẽ, thống nhất, khả thi, khắc phục những bất cập trong các quy định hiện hành. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng phải chủ động tiến hành một cách thường xuyên, toàn diện, khách quan, công khai, dân chủ, thận trọng và chặt chẽ; coi trọng phòng ngừa, lấy “xây” là chính, là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài, nhưng “chống” là nhiệm vụ cấp bách, quyết liệt, phải kiên trì, kiên quyết, thực hiện thường xuyên và hiệu quả. 
 Trong đó, chú trọng đổi mới, cải tiến quy trình kiểm tra, giám sát để siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phát hiện từ sớm, ngăn chặn từ gốc các vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Những quy định này cũng nhằm bảo đảm không có đảng viên nào có đặc quyền vượt quá Điều lệ Đảng cho phép; mọi đảng viên đều bị giám sát, xem xét, nhận xét, đánh giá hoạt động; mọi đảng viên đều có quyền bình đẳng, trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định và quản lý công việc trong Đảng. Để bảo đảm kỷ luật được chặt chẽ, tự giác thì phải mở rộng, tăng cường dân chủ trong Đảng. Hai mặt dân chủ và kỷ luật trong Đảng phải luôn luôn đi đôi với nhau. Có mở rộng, tăng cường dân chủ trong Đảng thì mới bảo đảm được kỷ luật và ngược lại, có bảo đảm được kỷ luật thì mới mở rộng, tăng cường được dân chủ trong Đảng. 
Theo đó, Đảng cho phép mọi đảng viên được tự do tư tưởng, được đề đạt tâm tư, nguyện vọng, ý kiến riêng của mình lên đến cơ quan cao nhất của Đảng. Đồng thời, Đảng cũng yêu cầu phải quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên trong cả lời nói và việc làm. Trách nhiệm đó trước hết thuộc về các chi bộ đảng. Mọi cán bộ, đảng viên dù ở cấp nào cũng đều phải rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật, tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ, tham gia đầy đủ sinh hoạt chi bộ, tuân thủ kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết không để một cán bộ, đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức. Mọi hành động vô tổ chức, vô kỷ luật, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của 
Đảng, gây chia rẽ, bè phái trong Đảng đều phải bị xử lý nghiêm minh. Đây là yêu cầu cấp thiết, thường xuyên để giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. 
Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng gắn với trách nhiệm người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nội bộ có biểu hiện mất đoàn kết, những nơi người dân có nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm; những nơi tham mưu, xây dựng thể chế, chính sách, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực, như kinh tế - tài chính, năng lượng, y tế, giáo dục, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, huy động, sử dụng các nguồn vốn, thực hiện các dự án đầu tư và công tác cán bộ. Cần công khai trên công luận những vụ việc tha hoá quyền lực, nhất là lạm quyền, lộng quyền, lạm dụng quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm” lớn; công khai các hành vị tha hoá quyền lực trong việc chạy chức, chạy quyền, trong việc bổ nhiệm người thân, người nhà không đúng tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, thủ tục, thẩm quyền hoặc nâng đỡ “không trong sáng” cán bộ dưới quyền… để cán bộ, đảng viên, Nhân dân thấy rõ tính chất nguy hại của tha hoá quyền lực để lại nhiều hậu quả đặc biệt nghiêm trọng… Phải chú trọng nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, đặc biệt là người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát về phòng, chống tham nhũng; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu. Qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm và công khai kết quả xử lý trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phải chú trọng công tác giám sát để phát hiện sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành vi phạm lớn, vi phạm của một người thành vi phạm của nhiều người, giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm. 
 Tăng cường kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giám sát, chú ý giám sát đều các khu vực, lĩnh vực, địa phương, coi đây là việc làm thường xuyên để phát hiện, nhắc nhở, cảnh báo, phòng ngừa từ xa, giải quyết từ sớm các khuyết điểm, vi phạm với mục đích “trị bệnh cứu người”, không để từ khuyết điểm kéo dài trở thành vi phạm, từ vi phạm nhỏ trở thành vi phạm lớn, để lại hậu quả nghiêm trọng. 
 Khi xem xét đơn, thư tố cáo, không phân biệt có ký tên hay không ký tên, vì đây là một đầu mối, một nguồn thông tin, còn vấn đề khẳng định sự đúng, sai của thông tin này là ở công tác kiểm tra của UBKT và các cơ quan có trách nhiệm. Điều này càng khẳng định, dân chủ là cơ sở để thực hiện kiểm tra, giám sát nội bộ, mở rộng dân chủ là điều kiện cốt yếu để tăng cường kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật nghiêm minh trong Đảng hiện nay. Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của UBKT cấp trên đối với UBKT cấp dưới trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, đặc biệt là các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, lĩnh vực nhạy cảm, quan trọng và xử lý vi phạm về tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Tăng cường chỉ đạo UBKT cấp dưới, khi cần thiết thì tiến hành kiểm tra cách cấp để thúc đẩy và tạo chuyển biến mang tính toàn diện, rõ rệt hơn nữa trong toàn ngành kiểm tra đảng. Các địa phương, đơn vị phải làm mạnh hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, phải thực sự quan tâm, lắng nghe ý kiến của nhân dân, báo chí, công luận; chọn một số vụ việc có tính điển hình để kiểm tra, kết luận và xử lý nghiêm minh, nhất là trong phát hiện, xử lý, ngăn chặn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc; khắc phục cho được tình trạng “trông chờ, nghe ngóng”, “trên nóng, dưới lạnh”. 
Phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử của Nhà nước; đưa công tác phòng, chống tham nhũng thành một trong những nội dung công tác trọng tâm của UBKT các cấp trong nhiệm kỳ này. Tập trung kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ việc, vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo. Trong quá trình kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì chuyển ngay hồ sơ vụ việc đến cơ quan điều tra có thẩm quyền để thụ lý, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật, không chờ đến khi kết thúc quá trình kiểm tra, giám sát mới chuyển. Kỷ luật của Đảng phải được thực hiện trước, là tiền đề để xử lý kỷ luật hành chính của Nhà nước, của đoàn thể và xử lý hình sự. 
 Thường xuyên quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy UBKT và cơ quan UBKT; xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đề xuất cấp có thẩm quyền tăng cường luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra và luân chuyển cán bộ kiểm tra sang công tác ở các cấp, các ngành khác theo Thông báo Kết luận số 312-TB/TW, ngày 9-3-2010 của Ban Bí thư “Về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển lãnh đạo UBKT các cấp sang công tác ở các ngành, các cấp để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kiểm tra”. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra, trong đó chú trọng trang bị phương pháp, kỹ năng nghiệp vụ và thường xuyên bổ sung kinh nghiệm thực tiễn về xử lý các vụ việc, cập nhật kiến thức cho họ. Đẩy mạnh ứng dựng công nghệ thông tin trong hoạt động của UBKT các cấp, đặc biệt là xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh mới, góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc và cải cách hành chính trong Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. 
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng dự và phát biểu chỉ đạo Hội nghị 

Năm là, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống, phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội về chính trị. 

Trong tình hình mới, đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" luôn nhiệm vụ cấp bách, cần làm ngay và thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, năm 1994 Đảng xác định âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là “4 nguy cơ trước mắt” của Đảng. Tới nay, cùng với các nguy cơ đã được Đảng chỉ ra, nguy cơ âm mưu “diễn biến hòa bình” vẫn đang tồn tại, thậm chí có phần gay gắt, phức tạp hơn. 
 Đáng chú ý, thời gian gần đây các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” với cấp độ ngày càng gay gắt, quyết liệt, hòng làm gây hỗn loạn về tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để nhằm mục đích xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Các thế lực thù địch tập trung lợi dụng triệt để sử dụng Internet, các trang mạng xã hội, để truyền bá các quan điểm sai trái, tung tin xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vu cáo, bịa đặt, bôi nhọ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo cấp cao nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm niềm tin của  Nhân dân với Đảng, Nhà nước. 
 Âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch không mới nhưng được đẩy mạnh và điều chỉnh 
 Khái niệm “Diễn biến hòa bình” không mới và cũng không lạ đối với mọi người. Người ta biết đến cụm từ này từ thập niên 20 của thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế quốc sử dụng “Diễn biến hòa bình” để chống phá các nước đối địch, nhất là nước Nga - Nhà nước Xô-viết công nông đầu tiên trên thế giới vừa ra đời từ sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại. 
 Và hiện nay, “Diễn biến hòa bình” có nhiều cách gọi khác nhau, đó là “chuyển hóa hòa bình”, “biến đổi hòa bình”,“cạnh tranh hoà bình”, “vượt trên hòa bình”, “chính sách giải phóng”, “chiến thắng không cần chiến tranh”, “chiến tranh không có tiếng súng”, “phương pháp phi vũ trang”… Có thể khẳng định “Diễn biến hòa bình” là cuộc chiến tranh - cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng, thể chế chính trị. Chiến lược “diễn biến hòa bình” liên tục được điều chỉnh, bổ sung trở thành một chiến lược tổng hợp, dùng biện pháp “phi vũ trang” là chủ yếu nhằm chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa. 
 Chúng ta thấy ngay từ đầu “Diễn biến hòa bình” không phải do chủ nghĩa đế quốc phát kiến, nhưng hiện là “sản phẩm” của họ và trên cơ sở tiếp thu tư tưởng quân sự cổ đại của nhân loại, vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng thời điểm, từng giai đoạn, nhằm giành thắng lợi quyết định trong “cuộc chiến” sống còn với các quốc gia khác hệ tư tưởng, đối địch. 
 Mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình” là nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu. Để đạt được mục đích đó, các thế lực thù địch đặt ra những mục tiêu cụ thể như: (1) Xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, thay thế bằng hệ tư tưởng tư sản; (2) Âm mưu thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” trong các nước xã hội chủ nghĩa; (3) Gây mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ thì lôi kéo, tiến hành bạo loạn chính trị; (4) Làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến tới chi phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế trong các nước xã hội chủ nghĩa; (5) Chuyển hoá văn hoá, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo “giá trị Mỹ”, phương Tây; (6) Thực hiện âm mưu “phi chính trị hoá” để “vô hiệu hoá” quân đội trong các nước xã hội chủ nghĩa. 
 Như vậy, có thể hiểu “Diễn biến hoà bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đứng đầu là Mỹ tiến hành. 
Ở Việt Nam, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch đặc biệt coi trọng việc phá hoại tư tưởng, coi đó là mũi nhọn, là con đường ngắn nhất dẫn tới sự xói mòn về niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh các đặc trưng chủ yếu như: tuyên truyền xuyên tạc nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đẩy mạnh hoạt động xuyên tạc lịch sử; thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội và công an… 
 Đáng chú ý, thời gian gần đây, các thế lực thù địch tích cực đẩy mạnh thực hiện một số thủ đoạn chống phá mới, đó là: Tìm cách đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đưa ra những luận điệu lập lờ, lẫn lộn giữa hai mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đến đảng viên và nhân dân. Khuyến khích những quan điểm lệch lạc và những khuynh hướng xã hội “dân chủ” kiểu Mỹ và phương Tây hòng làm cho người dân thấy hoài nghi về “xã hội Việt Nam” và mơ tưởng về một “xã hội khác” được cổ xúy là tốt đẹp hơn. 
 Các thế lực thù địch điều chỉnh thủ đoạn chống phá, bằng cách ngoài việc công kích trực diện vào nền tảng tư tưởng, chúng tuyên truyền kích động gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ. Với mưu đồ gây chia rẽ nội bộ, làm cho Đảng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong, chúng ra sức tuyên truyền, bịa đặt về các phe phái trong Đảng, nhất là lợi dụng việc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc là thanh trừng nội bộ. Chúng còn thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, tạo bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây mất an ninh, trật tự... 
 Chúng còn sử dụng nhiều cách thức tác động tinh vi, xảo quyệt đối với từng đối tượng cụ thể, trong đó đối với các tầng lớp nhân dân, chúng lợi dụng việc tiếp cận thông tin còn hạn chế, đưa những thông tin sai lệch, nhằm tạo khoảng trống trong tư tưởng nhân dân, làm cho nhân dân hoài nghi, mất niềm tin với chế độ, Đảng và nhà nước, từ đó chúng kích động các hoạt động gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 
 Âm mưu, thủ đoạn của chúng còn xuyên tạc, bóp méo các sự kiện chính trị, các vụ việc phức tạp, nhạy cảm. Lợi dụng các sự kiện chính trị quan trọng liên quan đến các vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông, ô nhiễm môi trường, hay những vấn đề liên quan đến công tác cứu trợ bão lụt, công tác phòng chống COVID-19 lợi dụng tung tin thất thiệt trên các trang mạng xã hội gây hoang mang trong dư luận, tạo nên sự hiểu nhầm của người dân, sự hoài nghi vào cấp ủy, chính quyền các cấp. 
 Những biểu hiện trên đây tuy không hoàn toàn là những thủ đoạn mới trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhưng về cơ bản đó là những dấu hiệu đặc trưng, nổi bật nhất, thể hiện tính chất tinh vi, xảo quyệt và sự nguy hiểm, thâm độc của nó đã và đang không ngừng tăng lên. Hiện nay, các thế lực thù địch thường xuyên thay đổi các chiến lược. Vì vậy, chúng ta phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, bình tĩnh xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất và có biện pháp phòng, chống hiệu quả. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt này. 
 Cuộc đấu tranh này được Đảng và nhà nước ta xác định là vẫn còn tiếp tục. Vì thế, chúng ta cần đề cao cảnh giác, chủ động tấn công, đổi mới tư duy, có phương thức, biện pháp thích hợp, tăng cường tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các quan điểm, tư tưởng, lý luận của Đảng, phản bác một cách mạnh mẽ, quyết liệt để kịp thời ngăn chặn sự chống phá về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch dưới bất cứ hình thức nào. 
 Điều quan trọng là làm cho tư tưởng, lý luận của Đảng thấm sâu trong mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là với thế hệ trẻ để chính họ là những chủ thể mạnh mẽ, vững chắc làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch. 
Xây dựng lực lượng CSGT, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về tư tưởng, chính trị, gắn bó máu thịt với nhân dân, thực hiện tốt nhiệm vụ mà  Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó

Nhận diện đúng và thực hiện quyết liệt, thường xuyên các giải pháp phòng, chống “diễn biến hoà bình” 

Trước những âm mưu, thủ đoạn vô cùng nguy hiểm kể trên, đòi hỏi chúng ta phải luôn chủ động, kiên quyết trong nhận diện, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”. Để đấu tranh làm thất bại chiến lực “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc, chúng ta cần triển khai và làm tốt một số nhiệm vụ, giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa thường xuyên, liên tục. Đó là: 

Cần xác định công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, phải được triển khai tích cực, thường xuyên và lâu dài. Trong đấu tranh phải kiên quyết, linh hoạt, chủ động, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là chính. Tuyên truyền giúp cán bộ, đảng viên và Nhân dân nâng cao cảnh giác, tạo sức đề kháng trước những thông tin, quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời, thường xuyên chỉ đạo, định hướng công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là giáo dục thế hệ trẻ nhận thức rõ về vai trò, sứ mệnh lãnh đạo của Đảng, về mô hình chính trị mà nước ta đã kiên định. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 
 Cấp uỷ, chính quyền các cấp nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố và giữ vững lập trường tư tưởng, chính trị cho cán bộ, đảng viên. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là yếu tố cơ bản, then chốt tạo nên sức mạnh chiến đấu của các đơn vị; đồng thời, giữ vai trò định hướng thúc đẩy hành động và hành vi tích cực của cán bộ, đảng viên. Đối với tổ chức đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng nội bộ trong sạch, vững mạnh toàn diện, chủ động nắm bắt tình hình, định hướng dư luận không để bị động, bất ngờ khi có tình huống xảy ra, coi đây là yếu tố then chốt quyết định đến thắng lợi của nhiệm vụ phòng chống “Diễn biến hòa bình”. Để thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt và thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tăng cường công tác kiểm tra, bảo đảm cho nghị quyết của tổ chức đảng được thực hiện thắng lợi. Đồng thời, xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo các cấp mạnh về số lượng và chất lượng, thể hiện ở các khâu từ lựa chọn, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí đúng người, đúng việc, phát huy vai trò tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, phát huy hiệu quả vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, trong việc phát huy dân chủ, tinh thần đoàn kết, tính chủ động trong việc ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch. 
 Có thể thấy rõ phương pháp của chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là thực hiện “chiến thắng không cần chiến tranh”. Chúng tập trung phá hoại về chính trị, tư tưởng của cán bộ, đảng viên. Do đó,  phải nâng cao bản lĩnh chính trị cũng cố và giữ vững tư tưởng cho mỗi cán bộ, đảng viên là tất yếu trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm tư tưởng sai trái và phản động, các biểu hiện mơ hồ, ảo tưởng, hoài nghi, dao động, lơ là mất cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ. 
 Quán triệt sâu sắc phương châm, gắn “xây dựng với bảo vệ”, “bảo vệ với xây dựng”; xây dựng là một nội dung của bảo vệ và là biện pháp chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội hiệu quả nhất. Như đã phân tích, mục đích của các thế lực thù địch nhằm thúc đẩy “phi chính trị hóa” quân đội, công an hòng làm ta từ bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, phai nhạt bản chất giai cấp, lý tưởng cách mạng, xa rời phương hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu và cuối cùng dẫn tới xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Âm mưu của họ rất thâm hiểm. Do đó, cần phải tập trung xây dựng lực lượng quân đội và công an vững mạnh về chính trị trong tình hình mới. Bởi đây là lực lượng chủ công, nòng cốt trong việc đảm bảo an ninh trật tự và an ninh quốc gia, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và Nhân dân. 
Xây dựng tổ chức lực lượng nòng cốt trong công tác đấu tranh phòng chống “diễn biến hòa bình”. Lực lượng tham gia đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” phải được tổ chức bài bản và có các phương án, xây dựng, bố trí lực lượng chủ công trên từng lĩnh vực tư tưởng, chính trị, văn hóa, văn học, nghệ thuật, kết hợp giữa tin bài trên các phương tiện thông tin đại chúng, kể cả mạng xã hội, báo cáo viên, thông tin chuyên đề thời sự trong sinh hoạt đảng, đoàn thể. Tổ chức các diễn đàn đối thoại, các hoạt động khoa học có tính chuyên sâu, tập hợp được chuyên gia, trí thức, văn nghệ sỹ bàn về những vấn đề đang được dư luận xã hội quan tâm, có liên quan đến lợi ích của đất nước, qua đó thu hẹp khoảng cách bất đồng quan điểm, chính kiến, không để xuất hiện các tổ chức, quan điểm chính trị đối lập. 
 Để thực hiện nhiệm vụ đó trước hết phải tăng cường và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng trong mọi tình huống; nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác giáo dục, phải coi trọng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục lý luận chính trị, cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác những thông tin cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trước những vấn đề mà dư luận, xã hội đang quan tâm, không để các vụ việc xảy ra nội cộm, bức xúc. 
 Phát huy mạnh mẽ vai trò của báo chí, truyền thông đối với công cuộc đấu tranh phòng, chống “Diễn biến hoà bình”. Đảm bảo tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính định hướng, cần phát huy vai trò của báo chí trong việc tạo dòng thông tin chủ lưu tích cực, góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng, chính trị trong nhân dân. Kiên quyết đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, khắc phục các biểu hiện thương mại hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích và các biểu hiện tiêu cực, lệch lạc. Để chống “diễn biến hoà bình”, báo chí cần tăng cường giáo dục ý thức xã hội chủ nghĩa cho quần chúng nhân dân, đặc biệt là thanh niên, sinh viên hiểu và nhận thức rõ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng… Báo chí cần tuyên truyền tinh thần yêu nước, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giữ vững phương hướng đúng đắn trong chỉ đạo dư luận, làm thất bại những âm mưu của “diễn biến hoà bình”. 
Trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” cần có sự đổi mới cách tiếp cận mục tiêu, tập trung, kiên quyết vạch trần những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, đồng thời tập trung sâu hơn vào việc hình thành khả năng “miễn nhiễm”, nâng cao “sức đề kháng” của xã hội trước những thông tin xấu độc. Trong đó, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ cần trang bị những có kiến thức, kỹ năng để làm tốt công tác tham mưu, công tác đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, trong đó khi nói và viết bài hoặc phát ngôn trên diễn đàn, trên mạng xã hội, phải thể hiện rõ bản lĩnh chính trị không được phép phát ngôn mang tính hoài nghi, a dua với những luồng thông tin xấu độc. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự nghiên cứu, học tập, trau rèn nhận thức, bản lĩnh chính trị, trước những tư tưởng sai trái, lệch lạc, không để mình bị “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn phát huy vai trò "hạt nhân" tại cơ sở để đưa những thông tin chính thống, tích cực, trở thành tấm gương sáng góp phần tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng, để từ đó khiến các thế lực thù địch không còn "đất" để xuyên tạc, chống phá.
Hồng Trang
 
 
Các tin khác liên quan