Xe cơ giới bao gồm ô tô, xe máy là nguồn nguy hiểm cao độ khi vận hành, hoạt động và tham gia giao thông có thể gây thiệt hại tới sức khỏe, tỉnh mạng và tài sản của bên thứ ba. Trong khi đó, trong nhiều trường hợp như chủ xe cũng tử vong khi xảy ra tai nạn hoặc đang gặp gặp khó khăn về tài chính, phủ sản, chủ xe cơ giới không có du khả năng, năng lực tài chính để chi trả, bởi thường cho nạn nhân, đặc biệt là trường hợp chủ xe máy thuộc thành phần, tầng lớp lao động trong xã hội, tạo gánh nặng và bất ổn lớn cho toàn xã hội. Hiện nay mô tô, xe gắn máy vẫn là nguồn phương tiện vận tải cơ giới chủ yếu và là nguồn gây tai nạn lớn nhất tại Việt Nam. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia (Báo cáo tổng kết 05 năm thực hiện phong trào thi đua bảo đảm trật tự, an toàn giao thông giai đoạn 2016 - 2020): Tổng số xe máy đã đăng ký tính đến ngày 14/10/2020 là 72 triệu xe, chiếm 63,48% nguyên nhân gây ra tai nạn.
Tuy nhiên, trên thực tế trong nhiều trường hợp, chủ xe lại tử vong khi xảy ra tai nạn hoặc đang gặp khó khăn về tài chính, phá sản; hay không đủ khả năng, năng lực tài chính để chi trả, bồi thường cho nạn nhân, đặc biệt là trường hợp chủ xe máy thuộc thành phần, tầng lớp lao động trong xã hội, tạo gánh nặng và bất ổn cho toàn xã hội. Như vậy, "bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bao gồm cả xe máy là giải pháp tài chính, công cụ chuyển giao rủi ro từ chủ xe cơ giới sang các doanh nghiệp bảo hiểm. Khi đó sẽ bảo đảm nguồn tài chính cho chủ xe cơ giới để nhanh chóng bồi thường cho nạn nhân, kịp thời ổn định cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thực hiện an sinh xã hội", ông Trung nhấn mạnh.
Chính vì vậy, đại diện Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm khẳng định, bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (bao gồm cả xe máy) là giải pháp tài chính, công cụ chuyển giao rủi ro từ chủ xe cơ giới sang các doanh nghiệp bảo hiểm, bảo đảm nguồn tài chính cho chủ xe cơ giới để nhanh chóng bồi thưởng cho nạn nhân, kịp thời ổn định cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thực hiện an sinh-xã hội.
Hiện nay, bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đã được các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp ngay từ những ngày đầu ra đời của các phương tiện xe cơ giới. Đơn cử như chiếc ô tô - xe cơ giới đầu tiên ra đời năm 1885 tại Đức và đơn bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cũng được cấp năm 1895 tại Anh quốc.
Đến nay, hầu hết các nước đều áp dụng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô, mô tô, xe máy và thậm chí có quốc gia áp dụng cả với xe đạp điện, bao gồm cả các nước phát triển có số lượng xe mô tô, xe máy thấp như Mỹ (khoảng 8 triệu xe), EU (11,6 triệu xe) hay các nước đang phát triển có số lượng lớn xe mô tô, xe máy tham gia giao thông như Ấn Độ (221 triệu xe), Trung Quốc (trên 90 triệu xe), Indonesia (110 triệu xe), Thái Lan (22 triệu xe). Để bảo đảm thực hiện, nhiều quốc gia như (Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore...) đã có quy định việc tham gia giao thông khi không có bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba là bất hợp pháp và có thể áp dụng hình phạt tù trong trường hợp tái phạm, vi phạm nhiều lần. Thậm chí, để bảo đảm thực hiện, nhiều quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore... có quy định việc tham gia giao thông mà không có bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba là bất hợp pháp và có thể áp dụng hình phạt tù trong trường hợp tái phạm, vi phạm nhiều lần. Còn tại Việt Nam, bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bao gồm cả ô tô, xe máy, được thực hiện 34 năm, quy định tại Nghị định 30-HĐBT ngày 10/3/1988, trải qua 4 lần sửa đổi vào các năm 1997, 2008, 2013 và 2021, cùng với đó là 8 lượt văn bản quy định chi tiết.
Sau hơn 10 năm triển khai Nghị định 103/2008/NĐ-CP, tỷ lệ chi trả bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự với xe máy vẫn ở mức rất thấp, khiêm tốn ở mức 6% năm 2019 (45 tỷ đồng chi trả trên 765 tỷ đồng phí bảo hiểm). Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều các loại bảo hiểm bắt buộc khác, cụ thể, tỷ lệ chi trả của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của xe ô tô là khoảng 33%, bảo hiểm cháy nổ là 31%. Trong thời gian tới, dự thảo Nghị định sắp ban hành nhằm đồng bộ với Luật kinh doanh bảo hiểm số 08/2022/QH15 về cơ bản kế thừa các quy định tại Nghị định số 03/2021/NĐ-CP. Đồng thời, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định nhằm tăng tỷ lệ chi bồi thường đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe máy.
Rõ ràng, lợi ích mang lại từ khoản tiền bồi thường bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe máy lớn gấp nhiều lần chi phí xã hội phải bỏ ra.
Thấu hiểu những thắc mắc của cử tri các tỉnh thành, lãnh đạo Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, thừa nhận sau khi rà soát và nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tham gia bảo hiểm khá thấp. Hơn nữa, khi xảy ra tai nạn, số người yêu cầu bồi thường cũng tương đối thấp. Cụ thể, dự thảo Nghị định đã bổ sung quy định tỷ lệ giảm phí 15% đối với các xe có lịch sử bồi thường thấp để tạo tăng cường vai trò công cụ điều tiết kinh tế của loại hình bảo hiểm này. Đồng thời tăng tỷ lệ chi hỗ trợ nhân đạo từ 25% lên 30%, đề xuất này nhằm tăng cường hơn nữa chi hỗ trợ nhân đạo trong trường hợp tai nạn thuộc loại trừ trách nhiệm bảo hiểm hoặc không thuộc phạm vi bồi thường.
Dự thảo Nghị định cũng thu hẹp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo hướng chỉ loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong trường hợp lái xe điều khiển xe cơ giới mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức trị số bình thường theo hướng dẫn của Bộ Y tế (Theo quy định tại Nghị định số 03/2021/ND-CP, lái xe điều khiển xe cơ giới mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn gây tai nạn sẽ không được bồi thường bảo hiểm).
Trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp trên cơ sở đánh giá đầy đủ kết quả triển khai, tình hình thị trường, xu thế, lợi ích và các rủi to liên quan. Đồng thời, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định nhằm tăng tỷ lệ chỉ bồi thường đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe máy. Vì vậy, trước mắt các chủ xe cơ giới phải thực hiện nghĩa vụ tuân thủ quy định mua bảo hiểm bắt buộc theo quy định của pháp luật và được lựa chọn tham gia bảo hiểm bắt buộc tại doanh nghiệp bảo hiểm. Khi mua bảo hiểm chúng ta hãy tìm hiểu kỹ quyền và trách nhiệm cũng như thủ tục, quy trình thực hiện bảo hiểm để hỗ trợ cho chính bản thân và tham vấn cho cộng đồng khi có tai nạn xảy ra. Có như vậy mới phát huy hiệu quả của bảo hiểm và hạn chế sự lơ là của người cấp bảo hiểm. Cùng với đó là chính sách bồi thường bảo hiểm cần được đổi mới, thông thoáng hơn nữa, thể hiện đúng vai trò của loại hình bảo hiểm có tính trách nhiệm xã hội cao.
N.H