Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, trong mọi lĩnh vực, việc ứng dụng nền tảng số là xu thế tất yếu. Lĩnh vực kinh doanh, giải trí, văn hóa, thể thao… đều cho thấy sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ số, cắt giảm lao động, rút ngắn hành trình, đơn giản hóa các thủ tục… là những lợi ích của công nghệ số.
Vậy trong lĩnh vực hành chính, hành pháp, việc ứng dụng công nghệ số cho ta những thuận lợi gì? Nếu như trước đây bạn cảm thấy phiền hà bởi các thủ tục hành chính rườm rà đặc biệt là quy định về các văn bản giấy tờ thì hiện nay bạn không còn phải lo lắng nữa. Trong lĩnh vực TTATGT chúng ta đang được những lợi ích của công nghệ số với quy trình đăng ký xe qua mạng hay như việc tra cứu vi phạm hành chính về TTATGT qua mạng… Tiến tới các loại giấy tờ cũng sẽ được số hóa, trong đó Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự đã thể hiện sự bắt kịp xu thế số.
Nghị định 03/2021/NÐ-CP cho phép doanh nghiệp cấp giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (giấy chứng nhận bảo hiểm) điện tử, nhưng phải tuân thủ các quy định của Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn thi hành. Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử phải tuân thủ đầy đủ các quy định hiện hành và phản ánh đầy đủ các nội dung quy định. Bên cạnh đó, Nghị định 03/2021/NÐ-CP quy định phí bảo hiểm là khoản tiền mà chủ xe cơ giới phải thanh toán cho doanh nghiệp bảo hiểm khi mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Theo quy định, khi mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ xe được doanh nghiệp bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cấp Giấy chứng nhận khi chủ xe cơ giới đã đóng phí hoặc có thoả thuận với chủ xe cơ giới về thời hạn thanh toán phí bảo hiểm theo quy định. Điểm mới trong quy định là Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử với đầy đủ các thông tin: tên, địa chỉ, số điện thoại của chủ xe; biển kiểm soát hoặc số khung số máy, loại xe và chỗ ngồi; tên địa chỉ, số điện thoại đường dây nóng của doanh nghiệp bảo hiểm; ngày, tháng, năm cấp. Giấy chứng nhận bảo hiểm cũng có đầy đủ mã vạch được đăng ký để có thể truy xuất thông tin định danh doanh nghiệp bảo hiểm và nội dung cơ bản của giấy chứng nhận bảo hiểm.
Khoản 4, Điều 6 Nghị định số 03/2021/NĐ-CP quy định:
"Trường hợp cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử, doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ các quy định của Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn thi hành; Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử phải tuân thủ đầy đủ các quy định hiện hành và phản ánh đầy đủ các nội dung quy định tại khoản 3 Điều này".
Một số quy định của Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan đến giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử:
Điều 33 Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29/11/2005 quy định về Hợp đồng điện tử: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật này”.
Điều 34 Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 Điều 34 về thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử: “Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu”.
Điều 36 Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 về giao kết hợp đồng điện tử: “1. Giao kết hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch trong quá trình giao kết hợp đồng. 2. Trong giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu”.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về thương mại điện tử: “3. Chứng từ điện tử trong giao dịch thương mại (dưới đây gọi tắt là chứng từ điện tử) là hợp đồng, đề nghị, thông báo, xác nhận hoặc các tài liệu khác ở dạng thông điệp dữ liệu do các bên đưa ra liên quan tới việc giao kết hay thực hiện hợp đồng”.
Khoản 1 Điều 119 Bộ Luật dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015 về hình thức giao dịch dân sự: “1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản”.
Khoản 4 Điều 6 Nghị định số 03/2021/NĐ-CP: “Trường hợp cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử, doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ các quy định của Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn thi hành; Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử phải tuân thủ đầy đủ các quy định hiện hành và phản ánh đầy đủ các nội dung quy định tại Khoản 3 Điều này”.
Khoản 3 Điều 18 Nghị định số 03/2021/NĐ-CP quy định về nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm: “Luôn mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực (bản cứng hoặc bản điện tử) khi tham gia giao thông, xuất trình giấy tờ này khi có yêu cầu của lực lượng Cảnh sát giao thông và cơ quan chức năng có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật”.
Khoản 2 Điều 35 Nghị định số 03/2021/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của Bộ Công an: “2. Chỉ đạo lực lượng Cảnh sát giao thông và lực lượng Cảnh sát khác liên quan giám sát, kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm hành chính chủ xe cơ giới, người lái xe tham gia giao thông vi phạm quy định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới”.
Theo quy định tại Khoản 2 Khoản 4 Điều 21 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP:
“2. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: a) Người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực”;
…4. Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: b) Người điều khiển xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực”.
Giấy chứng nhận bảo hiểm là một chứng cứ quan trọng chứng minh bạn đang mua bảo hiểm và bảo hiểm của bạn đang còn hiệu lực. Việc cấp giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử đã thực sự đơn giản hóa thủ tục tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia bảo hiểm. Do đó, Người tham gia giao thông phải luôn mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực (bản cứng hoặc bản điện tử) khi tham gia giao thông, xuất trình giấy tờ này khi có yêu cầu của lực lượng Cảnh sát giao thông và cơ quan chức năng có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
Hạnh Lê